Kernel Linux là gì?
Kernel linux (hạt nhân hệ điều hành Linux) là trung tâm điều khiển của hệ điều hành Linux, chứa các mã nguồn điều khiển hoạt động của toàn bộ hệ thống. Hạt nhân được phát triển không ngừng, thường có 2 phiên bản mới nhất, một bản dạng phát triển mới nhất và một bản ổn định mới nhất. Kernel được thiết kế theo dạng modul, do vậy kích thước thật sự của Kernel rất nhỏ. Chúng chỉ tải những bộ phận cần thiết lên bộ nhớ, các bộ phận khác sẽ được tải lên nếu có yêu cầu sử dụng. Nhờ vậy so với các hệ điều hành khác Linux không sử dụng lãng phí bộ nhớ nhờ không tải mọi thứ lên mà không cần quan tâm nó có sử dụng không. Kernel được xem là trái tim của hệ điều hành Linux, ban đầu phát triển cho các CPU Intel 80386. Điểm mạnh của loại CPU này là khả năng quản lý bộ nhớ. Kernel của Linux có thể truy xuất tới toàn bộ tính năng phần cứng của máy.
Phiên bản kernel thay đổi theo quy ước: A.B.C.D.
Trong đó:
- A: phiên bản của kernel - chỉ thay đổi khi có thay đổi rất lớn về định nghĩa hoặc trong code của kernel. Chỉ có 2 lần xảy ra sự thay đổi phiên bản kernel là vào năm 1994 (version 1.0) và 1996 (version 2.0).
- B: thay đổi khi kernal có những thay đổi lớn - việc thay đổi của B tuân theo hệ thống đánh số phiên bản chẵn - lẻ. Số lẻ cho phiên bản đang phát triển, số chẵn cho phiên bản ổn định.
Ví dụ: 2.6.x là phiên bản ổn định, 2.5.x là phiên bản đang phát triển.
- C: thay đổi khi có những thay đổi nhỏ, không đáng kể trong kernel.
- D: thay đổi khi có bug nhỏ hoặc các sercurity fix.
Chuyên mục: linux, N-Linux
Kernel linux (hạt nhân hệ điều hành Linux) là trung tâm điều khiển của hệ điều hành Linux, chứa các mã nguồn điều khiển hoạt động của toàn bộ hệ thống. Hạt nhân được phát triển không ngừng, thường có 2 phiên bản mới nhất, một bản dạng phát triển mới nhất và một bản ổn định mới nhất. Kernel được thiết kế theo dạng modul, do vậy kích thước thật sự của Kernel rất nhỏ. Chúng chỉ tải những bộ phận cần thiết lên bộ nhớ, các bộ phận khác sẽ được tải lên nếu có yêu cầu sử dụng. Nhờ vậy so với các hệ điều hành khác Linux không sử dụng lãng phí bộ nhớ nhờ không tải mọi thứ lên mà không cần quan tâm nó có sử dụng không. Kernel được xem là trái tim của hệ điều hành Linux, ban đầu phát triển cho các CPU Intel 80386. Điểm mạnh của loại CPU này là khả năng quản lý bộ nhớ. Kernel của Linux có thể truy xuất tới toàn bộ tính năng phần cứng của máy.
Phiên bản kernel thay đổi theo quy ước: A.B.C.D.
Trong đó:
- A: phiên bản của kernel - chỉ thay đổi khi có thay đổi rất lớn về định nghĩa hoặc trong code của kernel. Chỉ có 2 lần xảy ra sự thay đổi phiên bản kernel là vào năm 1994 (version 1.0) và 1996 (version 2.0).
- B: thay đổi khi kernal có những thay đổi lớn - việc thay đổi của B tuân theo hệ thống đánh số phiên bản chẵn - lẻ. Số lẻ cho phiên bản đang phát triển, số chẵn cho phiên bản ổn định.
Ví dụ: 2.6.x là phiên bản ổn định, 2.5.x là phiên bản đang phát triển.
- C: thay đổi khi có những thay đổi nhỏ, không đáng kể trong kernel.
- D: thay đổi khi có bug nhỏ hoặc các sercurity fix.
0 nhận xét:
Đăng một bình luận